Thực đơn
Giống_ngựa Tổng quanLoài ngựa có thể phân ra làm ba loại: ngựa chạy nhanh, ngựa làm việc và loại ngựa nhỏ. Ngựa chạy nhanh được cấy giống ở miền nam nước Mỹ, trong khi đó loại ngựa làm việc được cấy giống ở miền bắc nước Mỹ. Loại ngựa nhỏ có lẽ được cấy giống từ miền nam nước Mỹ. Nhiều loại ngựa chạy nhanh đều là dòng giống con cháu của loài ngựa Ả rập. Ngựa làm việc được các chàng hiệp sĩ với áo giáp nặng nề thời Trung Cổ ưu ái dùng để cưỡi khi lâm chiến. Sau này chúng được dùng làm những cộng việc nặng nề của đồng áng như cầy bừa, kéo xe và những công việc nặng nhọc khác.
Vào khoảng thế kỷ 19, ngựa làm việc thay thế loài bò ở Bắc Âu và Bắc Mỹ Châu. Ngựa cưỡi (riding horse) cao từ 142 cm đến 157 cm, nặng từ 350 kg đến 600 kg. Ngựa kéo (draft horse) khỏe to lớn hơn, cao 163–183 cm, nặng 700–1000 kg. Loài ngựa cưỡi thường lớn hơn, bắt đầu vào khoảng 15,2 hands (62 inches-157 cm) thông thường cao khoảng 17 hands (68 inch, 173 cm), trọng lượng 500–600 kg (1.100 đến 1.300 lb) hoặc khoảng bình thường cao ít nhất 16 hands (64 inch-163 cm) và có thể cao đến 18 hands (72 inch-183 cm) nó có thể nặng từ khoảng 700 đến 1.000 kg (1.500 đến 2.200 pounds).
Những loại ngựa thấp hơn 1.45 mét được xếp vào loại ngựa nhỏ, có con cao khoảng 0.65 mét. Hầu hết ngựa nhỏ thuộc giống Celtic. Bù cho thể xác nhỏ nhoi của mình, loại ngựa này có tiếng là thông minh và khôn lanh. Mặc dù nhỏ bé hơn nhưng các con ngựa thuộc giống ngựa lùn lại khỏe hơn các con ngựa thông thường. Các cá thể thuộc giống ngựa lùn chỉ đòi hỏi một nửa lượng thức ăn một con ngựa bình thường tiêu thụ nếu chúng có cùng trọng lượng.[1] Khác với trâu, bò, việc chăn nuôi ngựa, nhất là ngựa giống có yêu cầu cao hơn rất nhiều.[2] Khi nuôi ngựa, người chăn nuôi cũng cần hiểu biết một số đặc điểm chủ yếu các giống ngựa nội, ngựa lai, ngựa nhập nội để chọn lựa loại giống nuôi phù hợp.[3]
Các nòi ngựa khác nhau thường được những người gây giống chia làm ba loại. Ngựa được phân loại “ngựa máu nóng” (hot-bloods), “ngựa máu lạnh” (cold-bloods), “ngựa máu ấm” (warm-bloods), không phải dựa trên thân nhiệt, mà dựa trên tính khí và năng lượng của ngựa.
Người ta cũng xếp vào bốn nhóm chính:
Dựa vào nước chạy có ngựa tế (chạy đua nước lớn), ngựa kiệu (chạy lúp xúp), ngựa sải (nhảy theo sải), dựa vào sức khỏe có ngựa bền (chạy dai sức), ngựa bở (chạy yếu sức), ngựa nục (mập béo), ngựa lao (đau ốm mất sức). Dựa vào tính chất công việc phục vụ có ngựa Ký, ngựa Kỳ (dùng cho chiến trận), ngựa Nô (dùng cho vận tải), ngựa Đài (dùng cho thông tin liên lạc, phục vụ sản xuất)… Căn cứ vào đặc điểm, công việc, người ta lại chia ra: ngựa hoang, ngựa rừng, ngựa nhà, ngựa đua, ngựa kéo, ngựa cày…
Thực đơn
Giống_ngựa Tổng quanLiên quan
Giống ngựaTài liệu tham khảo
WikiPedia: Giống_ngựa http://www.doisongphapluat.com/tin-tuc/the-gioi/10... http://www.doisongphapluat.com/to-quoc-xanh/kham-p... http://www.baogiaothong.vn/thu-choi-ngua-xa-xi-cua... http://baoquangngai.vn/channel/7944/201401/loai-ng... http://giaothongvantai.com.vn/giai-tri/van-hoa/201... http://nld.com.vn/thoi-su-quoc-te/my-nhuc-dau-vi-n... http://nld.com.vn/thoi-su-quoc-te/nhung-giong-ngua... http://danviet.vn/khoa-hoc/nam-ngo-ban-chuyen-cac-... http://danviet.vn/khoa-hoc/nhung-noi-ngua-noi-tien... http://nongnghiep.vn/phan-biet-giong-ngua-nuoi-pos...